Sử dụng chế phẩm sinh học bổ sung enzyme để đảm bảo nuôi trồng thủy sản bền vững

            Trong nuôi trồng thủy sản, các hình thức nuôi đặc biệt là thâm canh thường dẫn đến việc hình thành và tích lũy chất hữu cơ ngày càng cao (phần lớn từ thức ăn dư thừa do thủy sản không thể tiêu hóa hết) làm ô nhiễm chất lượng nước và đáy ao nuôi do sự tích lũy các chất độc trong ao như ammonia, nitrite và hydrogen sulfide. Điều này làm thay đổi thành phần vi khuẩn trong đất và nước ao nuôi, làm gia tăng sự có mặt các vi khuẩn gây bệnh, gây ra dịch bệnh cho tôm cá nuôi, ảnh hưởng lớn đến năng suất các vụ nuôi. Do đó, tìm ra các giải pháp để cải thiện chất lượng nước, đất trong ao nuôi thủy sản cũng như tăng khả năng phân giải, sử dụng và hấp thụ hiệu quả thức ăn được xem là nhiệm vụ hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản bền vững.

 Một trong những giải pháp hữu hiệu được người nuôi trồng thủy sản áp dụng phổ biến trong những năm gần đây là sử dụng chế phẩm sinh học bổ sung enzyme.

Enzyme là gì?

Enzyme là một loại protein trong hệ thống sinh học được tổng hợp trong các tế bào sống. Đặc điểm cơ bản của enzyme là chất  xúc tác làm tăng tốc độ phản ứng mà không bị biến đổi sau phản ứng. Chúng tham gia vào tất cả các loại hình đồng hóa và dị hóa của quá trình tiêu hóa và trao đổi chất.

Một số enzyme có thể hoạt động tốt trong những môi trường khác biệt trong khi một số vi sinh vật lại bị hạn chế bởi môi trường sống (yếu tố pH, oxy,…), thậm chí chúng có thể hoạt động tốt ngay cả khi môi trường đó thay đổi khắc nghiệt, chẳng hạn protease có thể hoạt động hiệu quả giữa pH 4 đến 11 ở nhiệt độ 20 đến 70oC, lợi thế này giúp bảo quản hoạt độ enzyme và tái sử dụng nó.

Ứng dụng trực tiếp enzyme trong nuôi trồng thủy sản

  • Trong xử lý nước và đáy ao nuôi

Trực  tiếp sử dụng enzyme và vi sinh có lợi trong ao nuôi chính là cách tiếp cận thân thiện môi trường, giúp giảm thiểu các loài vi khuẩn gây bệnh, gia tăng quá trình khoáng hóa hữu cơ và loại bỏ các chất thải không mong muốn thông qua một số enzyme đặc hiệu – Phương pháp này được gọi là “Sự điều chỉnh sinh học” – “Bioremediation”.

Trong tiến trình điều chỉnh sinh học, enzyme đóng vai trò là chất xúc tác để đẩy nhanh các phản ứng sinh hóa trong đất và nước ao nuôi. Khi được đưa vào nước hoặc rải trên bề mặt đáy ao, enzyme sẽ có khả năng phân hủy nhiều hợp chất hữu cơ có mặt trong ao nuôi tôm cá.

Các loại enzyme sử dụng trong nuôi thủy sản

Các loại enzyme sử dụng trong nuôi thủy sản Chất xúc tác của enzyme (Substrate)
Amylase Tinh bột – Starch
β-Glucosidase β-Glucoside
Cellulase Cellulose
Lipase Chất béo Lipid
Protease Protein
Xylanase Xylan, Hemicellulose
Pectinase Pectin

Enzyme cũng được sản xuất tự nhiên do vi sinh vật tiết ra (enzyme ngoại bào), chẳng hạn như cellulose, protease và amylase được sản xuất trong quá trình lên men hiếu khí các chất hữu cơ bởi vi sinh vật, ví dụ một số loài Bacillus. Các chủng Bacillus thường thấy trong nền đáy ao nuôi và cũng có thể đưa vào ao nuôi để thực hiện quá trình điều chỉnh sinh học – Bioremediation. Một số Bacillus sp. có khả năng phân hủy hợp chất ni tơ cũng như các enzyme tiết ra bởi các loài Bacillus sp. này có thể giúp đẩy nhanh quá trình phân hủy hợp chất hữu cơ và các sản phẩm độc như ammonia.

Amylase phân giải tinh bột

Lợi ích của phương pháp “Điều chỉnh sinh học” – Bioremediation

Enzyme có khả năng ổn định các chất hữu cơ trong đất và có thể được sử dụng một cách hiệu quả để quản lý chất lượng đất và một số điều kiện nuôi cho các loài nuôi thủy sản. Không có một loại enzyme đặc hiệu nào có thể có hiệu quả cho mọi tác dụng mà thường phải phối trộn hỗn hợp các enzyme để đạt hiệu quả cao nhất trong điều chỉnh sinh học cho ao nuôi thủy sản. Tính hiệu quả này đòi hỏi hỗn hợp enzyme phối trộn phải đáp ứng:

– Xúc tác cho việc phân giải các chất hữu cơ (chẳng hạn như phân thải tôm, cá, tảo chết và thức ăn thừa…);

– Bẻ gãy các chất rắn lơ lững (tách các chất keo tụ), giảm thiểu sự tích lũy chất thải;

– Giảm chất thải rắn;

– Phân hủy các chất dinh dưỡng phức hợp;

– Phóng thích các chất dinh dưỡng hòa tan.

Nhiều enzyme có khả năng mạnh trong việc phân hủy các chất thải cũng như giảm nhanh quá trình kỵ khí của đáy ao. Chúng gia tăng quá trình phân giải hữu cơ, bao gồm thức ăn thừa, tảo chết, đất khoáng, phân thải và các vi sinh vật gây bệnh trong đất nơi bị kỵ khí. Tuy nhiên, hầu hết quá trình “Điều chỉnh sinh học” xúc tác bởi enzyme đều có sự hiện diện quan trọng của các vi sinh vật có lợi. Enzyme đẩy nhanh tiến trình vi sinh bằng cách giúp bẻ gãy các phân tử lớn của chất thải vì thể tạo bề mặt tiếp xúc lớn hơn cho vi sinh vật có lợi tiếp tục tiến trình phân giải và lên men của chúng. Hiệu quả của tiến trình này có thể thấy rõ thông qua chất lượng nước và chất lượng đất tốt hơn.

Như vậy việc phối hợp các enzyme (amylase, xylanase, cellulase, protease) và vi khuẩn tạo enzyme (chẳng hạn Bacillus sp.) gia tăng tiến trình tiền tiêu hóa các chất dinh dưỡng phức hợp và thúc đấy việc phóng thích các chất dinh dưỡng dễ tiêu hóa hơn. Điều này giúp giảm tích lũy chất thải và hữu cơ trong ao cũng như hạn chế quá trình yếm khí ở đáy ao, vì thế cải thiện điều kiện nuôi cho tôm cá.

Việc bổ sung các enzyme trong thức ăn hàng ngày có thể cải thiện việc sử dụng chất dinh dưỡng, rút ngắn thời gian nuôi, giảm các bệnh về đường ruột ở tôm
  • Trong bổ sung thức ăn thủy sản

Động vật thủy sản thường thiếu một số enzyme tiêu hóa quan trọng trong giai đoạn còn nhỏ hoặc trong suốt chu kỳ nuôi. Thành phần thức ăn, ngoài các dưỡng chất còn có nhiều chất khó tiêu hóa (như cellulose, xylan…), thậm chí cản trở quá trình tiêu hóa, trong khi hàm lượng và loại enzyme nội tại cơ thể động vật thủy sản không thể đáp ứng quá trình phân hủy này. Việc bổ sung các enzyme trong thức ăn hàng ngày có thể cải thiện việc sử dụng chất dinh dưỡng, rút ngắn thời gian nuôi, giảm các bệnh về đường ruột, giảm chi phí thức ăn và sự bài tiết chất dinh dưỡng vào môi trường. Cụ thể, enzyme giúp:  

  • Giảm độ nhớt trong tiêu hóa;
  • Tăng cường tiêu hóa và hấp thu các chất dinh dưỡng đặc biệt là chất béo và đạm;
  • Cải thiện giá trị năng lượng trao đổi của chế độ ăn;
  • Giảm thải amoniac;
  • Cải thiện khả năng tiêu hóa dinh dưỡng.

Để tạo nên tác dụng toàn diện và vượt trội thì cần bổ sung cả enzyme và probiotics (vi sinh vật có lợi) bởi giữa chúng có mối quan hệ mật thiết, tương hỗ. Enzyme sẽ giúp thức ăn được cắt nhỏ và phân ra thành dạng nhũ tương dễ hấp thu vào máu. Probiotics giúp đường ruột khỏe mạnh và khi đường ruột khỏe mạnh thì việc hấp thu diễn ra dễ dàng hơn. Nếu thiếu enzyme, thức ăn không được tiêu hóa, thành ruột không hấp thu được, thức ăn sẽ ứ đọng trong ruột, sinh ra các chất độc tiêu diệt các vi khuẩn có ích trong ruột. Hoặc ngược lại, khi đường ruột mất cân bằng sinh học, thiếu các chủng vi khuẩn có lợi,  cũng gây nên hiện tượng giảm tiết một số loại enzyme gây cản trở tiêu hóa…

Công ty CP Sinh phẩm BioOne hiệncó sản phẩm BioOne Blend Enzyme (Phức hệ enzyme hiệu quả) với 02 loại chính:

  • Enzyme Blend BioOne 1X;
  • Enzyme Blend BioOne 3X.

Thành phần: Protease, amylase, cellulase, xylanase, pectinase, tá dược vừa đủ.

Công dụng: Làm nguyên liệu điều chế các chế phẩm enzyme tiêu hóa, chất bổ sung thức ăn chăn nuôi, chế phẩm xử lý môi trường trong thú y, thủy sản và môi trường.

            Ngoài ra BioOne còn cung cấp các sản phẩm probiotics đa dòng (Bacillus subtilis, Bacillus licheniformis, Lactobacillus plantarum…) bổ sung enzyme cho hệ tiêu hóa động vật BioOne Strong Gut, làm sạch chuồng trại BioOne SuperClear, chuyên cắt tảo BioOne DeGreen nhằm mang đến sự lựa chọn đa dạng với nhu cầu và mục đích sử dụng của quý khách hàng.

            Men vi sinh BioOne cam kết mang đến sự hài lòng và an toàn sức khỏe cho vật nuôi.

Tôm có hệ đường ruột khỏe nhờ sử dụng chế phẩm sinh học

                                                                                                                         

Nên sử dụng Men vi sinh hay Chlorine trong xử lý nước ao nuôi trồng thủy sản?

Trong những năm gần đây, nuôi trồng thủy sản phát triển rất mạnh cả quy mô và sản lượng. Việc phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững gặp nhiều khó khăn khi việc thâm canh hóa ngày càng tăng dẫn đến ô nhiễm môi trường ao nuôi. Sự tích tụ các chất hữu cơ, khí độc ngày càng lớn tạo điều kiện thuận lợi cho mầm bệnh phát sinh và phát triển gây ảnh hưởng đến sức khỏe vật nuôi, làm tôm cá chậm lớn, giảm tỷ lệ sống và năng suất nuôi. Vì vậy, cải thiện chất lượng nước ao nuôi đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong nuôi trồng thủy sản.

Với tập quán canh tác lâu năm, người nuôi vẫn sử dụng Chlorine để xử lý nước ao nuôi thủy sản mà chưa hiểu hết những hệ lụy gây nguy hại đến con người và môi trường như:

– Chlorine là chất oxy hóa mạnh, khi lượng Chlorine xử lý nước trong ao nuôi tồn dư quá nhiều làm ao nuôi có mùi khó chịu, gây độc cho đối tượng nuôi đặc biệt là ấu trùng tôm và cá.  Quá trình oxy hóa gây ra những kích thích, phá hủy và tổn thương tế bào mang cá, làm cá tăng quá trình tiết dịch nhầy, viêm màng gây phồng mang cá. Sự thay đổi cấu trúc mang cá sẽ làm giảm khả năng hô hấp và hiệu quả điều chỉnh áp suất thẩm thấu. Khi bị ngộ độc Chlorine, nhịp hô hấp của cá tăng mạnh, cá có thể chết do giảm oxy trong máu.

– Phổ diệt trùng của Chlorine rất rộng nên hầu hết các vi khuẩn có lợi lẫn có hại trong nước, đáy ao đều bị tiêu diệt dẫn đến đất đáy ao bị thoái hóa và màu nước khó lên.

– Chlorine chỉ được sử dụng khi xử lý nước cấp vào đầu vụ nuôi mà không thể xử lý nước vào giữa và cuối vụ nuôi vì khi nước ao giàu dinh dưỡng, chất hữu cơ sẽ xảy ra phản ứng phụ với Chlorine sinh chất độc hại cho thủy sản, nguy cơ hình thành mầm móng ung thư ảnh hưởng xấu sức khỏe người tiêu dùng, giảm giá trị gia tăng đối với thành phẩm xuất khẩu vào các thị trường khó tính như Mỹ, EU…

Trước những hạn chế đó, Men vi sinh xử lý nước đa dòng cho thủy sản BioOne SuperClear chính là giải pháp tối ưu, phát huy những điểm mạnh và khắc phục những bất lợi khi sử dụng Chlorine. Sản phẩm tạo sự an toàn về môi trường ao nuôi, phòng bệnh cho tôm cá cũng như đảm bảo được nguồn thực phẩm sạch, an toàn và chất lượng, đồng thời là cách thức giúp nghề nuôi trồng thủy sản phát triển bền vững.

Men vi sinh xử lý nước đa dòng cho thủy sản BioOne SuperClear có các thành phần sau:

  • Thành phần:
    • Bacillus subtilis;
    • Bacillus licheniformis;
    • Enzyme: Protease, Amylase, Cellulase.
  • Mật độ: 108 – 109 CFU/gam
  • Cách dùng:
    • Từ 100 – 200 gram/1000m3 nước, dùng định kỳ 5 – 7 ngày/lần
    • Ao nước bị ô nhiễm, dùng liều gấp đôi, 3 – 5 ngày/lần.
  • Công dụng: Nên sử dụng chế phẩm sinh học ngay trong quá trình cải tạo ao vì sau quá trình diệt tạp, sản phẩm giúp phục hồi sự hiện diện của các vi sinh vật có lợi trong nước và tái tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho ao (đặc biệt là những ao tôm cá giống). Với ưu thế có thể sử dụng trong quá trình nuôi, sự hoạt động của các vi sinh vật có lợi trong sản phẩm sẽ mang lại tác dụng cho ao nuôi thủy sản như:
  • Sản phẩm chứa các enzyme có khả năng thủy phân mạnh (Protease, Amylase, Cellulase), giúp phân giải các chất hữu cơ tồn dư từ nguồn thức ăn dư thừa, phân tôm, nguồn hữu cơ gây ô nhiễm, xác tảo (tinh bột, cellulose, protein…), làm giảm hiện tượng phú nhưỡng hóa do sự phát triển của các nhóm tảo;
  • Giảm các độc tố trong môi trường nước (do các chất khí: NH3, H2S… phát sinh), do đó sẽ làm giảm mùi hôi trong nước, giúp tôm cá phát triển tốt;
  • Ức chế sự hoạt động và phát triển của vi sinh vật có hại (do các loài vi sinh vật có lợi sẽ cạnh tranh thức ăn và tranh giành vị trí bám với vi sinh vật có hại), giúp gia tăng về thành phần, mật độ của nhóm vi sinh vật có lợi, kìm hãm, ức chế, lấn át sự phát triển của vi sinh vật có hại, do đó sẽ hạn chế được mầm bệnh phát triển gây bệnh cho tôm cá;
  • Giúp ổn định độ pH của nước, ổn định màu nước do vi sinh vật hấp thu chất dinh dưỡng hòa tan trong nước nên hạn chế tảo phát triển nhiều, giúp giảm chi phí thay nước. Đồng thời làm tăng oxy hòa tan trong nước, giúp tôm cá đủ oxy để thở, khỏe mạnh, ít bệnh, ăn nhiều, mau lớn;
  • Nâng cao hiệu quả kinh tế cho các hình thức nuôi trồng thủy sản ( tăng hiệu quả sử dụng thức ăn; tôm cá mau lớn giúp rút ngắn thời gian nuôi, tăng tỷ lệ sống và tăng năng suất do tôm cá nuôi ít bị hao hụt; Tôm cá nâng cao miễn dịch giúp giảm chi phí sử dụng thuốc và hóa chất trong điều trị bệnh; giảm chi phí thay nước…).

Sản phẩm Men vi sinh xử lý nước hiện đang được BioOne sản xuất thành các loại chính như sau:

  • Men vi sinh xử lý nước cho thủy sản 108 CFU/gram (chứa 1 trăm triệu lợi khuẩn/gram sản phẩm;
  • Men vi sinh xử lý nước cho thủy sản 109 CFU/gram (chứa 1 tỷ lợi khuẩn/gram sản phẩm);
  • Men vi sinh xử lý nước cải tiến 108 CFU/gram, 109 CFU/gram.

Men vi sinh BioOne cam kết mang đến sự hài lòng và an toàn sức khỏe cho khách hàng.

Nuôi tôm năng suất cao nhờ Men vi sinh

          

Xử lý bùn đáy ao trong nuôi tôm bằng men vi sinh BioOne

Một trong những nguyên nhân sinh ra bệnh và gây ô nhiễm ao nuôi tôm là bùn đáy. Cho nên xử lý bùn đáy trong ao nuôi tôm là việc rất cần thiết và quan trọng giúp tăng tôm được khỏe mạnh và tăng năng suất mang lại hiệu quả kinh tế.

Nguyên nhân sinh ra bùn đáy: 

  • Do thức ăn thừa trong ao nuôi
  • Xác chết của các loại sinh vật
  • Phân tôm
  • Đất ao bị xói mòn do dòng chảy của nước
  • Đất từ bờ ao bị rửa trôi
  • Các loại vôi, khoáng chất
  • Các chất lơ lửng do nguồn nước cung cấp

Nguyên nhân sinh ra các chất thải lắng tụ một phần là do đất ao bị xói mòn. Còn phân tôm, các chết sinh vật, thức ăn là nguyên nhân chính gây ra các chất thải hữu cơ.

visinhbunday.jpg

Ảnh hưởng bùn đáy trong ao nuôi tôm

  • Sinh ra sản phẩm có tính độc cao đó là NH3 và H2S. Quá trình bài tiết của tôm và sự phân hủy chất đạ trong các vật chất hữu có trong điều kiện hiếm khí và yếm khí sinh ra khí NH3. Trong điều kiệm yếm khí, khí H2S sinh ra từ chất hữu cơ lắng tụ khi phân hủy. Sự xuất hiện của hợp chất sắt khử sẽ làm những lớp đất yếm khí có chất hữu có sẽ có màu đen. H2S có mùi đặc trưng là trứng thối nhưng với nồng độ đủ cao thì mới được phát hiện
  • Gây ngộ độ và stress cho tôm
  • Tạo điều kiện cho tảophát triển
  • Dễ gây ra các bệnh cho tôm như bệnh đen mang, mòn râu..
  • Bùn đáy sinh ảnh hưởng đến sức khỏe của tôm và giảm năng suất trong nuôi trồng.

Các biện pháp xử lý bùn đáy

Môt số biện pháp xử lý bùn đáy trong ao nuôi tôm mà mọi người có thể tham khảo:

Làm sạch ao

Trước khi chuẩn bị mùa vụ tiếp tiếp theo thì ngư dân nên dọn sạch chất thải ở mùa vụ trước. Có thể dùng phương pháp cải tạo ướt hoặc cải tạo khô tùy theo điều kiện ao nuôi. Việc dọn sạch ao sẽ giúp tôm không bị ảnh hưởng và sinh bệnh từ các chất thải của mùa vụ trước.

Hạn chế sự xói mòn do dòng chảy của nước

Để khắc phục hiện tượng này cần phải rửa ao nhiều lần, xây dựng chắc chắn hệ thống ao nuôi trồng. Điều này làm cho ao nuôi trồng được sạch sẽ, hạn chế các mầm bệnh cho tôm.

Quản lý thức ăn

Chọn những thức ăn có chất lượng cao và sử dụng thức ăn một cách hợp lý để hiện tượng thừa thức ăn. Khi thức ăn kém chất lượng dẫn đến hệ số chuyển đổi thức ăn thành thịt cao; độ tan rả thức ăn trong nước lớn làm tôm không sử dụng được hết thức ăn; điều này sẽ làm tăng lượng bùn trong nuôi tôm.

Loại bỏ chất thải ra khỏi ao nuôi

Một số biện pháp loại bỏ chất thải trong ao nuôi như thay nước đáy, dùng hệ thống thoát nước ở trung tâm, dùng máy hút bùn. Phương pháp tạo điều kiện cho tôm có một môi trường trong lành và phát triển.

Dùng chế phẩm vi sinh

Phương pháp dùng hiệu quả nhất hiện nay là dùng chế phẩm vi sinh. Sản phẩm được chuyên dùng trong xử lý bùn đáy là Men vi sinh xử lý nước đa dòng cho thủy sản BioOne.

Men vi sinh xử lý đáy BioOne có các thành phần sau:

+ Thành phần:

Bacillus subtilis

Bacillus lichenifomis

– Enzyme: Protease, Amylase, Cellulase

+ Mật độ:  108-109 CFU/gam

+ Công dụng:   

– Giúp làm sạch môi trường ao nuôi

– Phân hủy mùn bã hữu cơ trong ao nuôi

+ Cách dùng:

– Từ 100 – 200 gram/1000m3 nước, dùng định kỳ 5-7 ngày/lần

– Ao nước bị ô nhiễm, dùng liều gấp đôi

Nhờ có những thành phần trên mà men vi sinh xử lý đáy ao BioOne giảm bùn đáy hiêu quả. Bên cạnh đó sản phẩm còn bảo vệ môi trường trong ao còn bảo vệ sống xung quanh chúng ta nhờ hạn chế việc sử dụng hóa chất.

Người dùng có thể kết hợp các dòng men vi sinh tiêu hóa đa dòng thủy sản BioOne với nhau để tăng hiệu quả trong sản xuất. Men vi sinh BioOne sẽ luôn mang đến sự hài lòng và an toàn sức khỏe cho khách hàng.

Mong rằng những thông tin trên sẽ giúp bà con xử lý bùn đáy trong ao một cách nhanh chóng, hiệu quả.cropped-top-10-best-probiotic-2.jpg

 

Kiểm soát tảo độc trong ao nuôi tôm bằng các chế phẩm cắt tảo BioOne DeGreen

Trong quá trình nuôi tôm thâm canh với mật độ cao như hiện nay tại Việt Nam, yếu tố đóng vai trò quyết định, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và sự phát triển của đàn tôm cũng như sản lượng và chất lượng sau khi thu hoạch chính là chất lượng nguồn nước nuôi. Bên cạnh tình trạng nhiễm độc NH3 và NO2, sự mất cân bằng thành phần và mật độ các loài tảo cũng như sự phát triển mạnh mẽ của các loài tảo độc ngay trong ao nuôi khiến chất lượng nguồn nước nuôi không đảm bảo cho sự  sinh trưởng và phát triển của đàn tôm nuôi do ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hô hấp của tôm.

cattao.jpg

Trong ao nuôi, tảo là thành phần không thể thiếu, đóng vai trò quan trọng: là mắc xích đầu tiên của chuỗi thức ăn và là nguồn cung cấp khí oxy chính cho sự hô hấp của tôm. Bên cạnh đó, sự phát triển ưu thế của các loài tảo có lợi giúp giảm độ trong của nước tới mức độ thích hợp cho quá trình sinh trưởng của tôm nuôi, hấp thu nguồn dinh dưỡng dư thừa, khống chế sự phát triển của các loài tảo gây độc và vi sinh vật gây hại nhờ vào cạnh tranh dinh dưỡng, đảm bảo sự cân bằng của hệ sinh thái thủy vực,… Sự phong phú và đa dạng về loài của tảo trong ao nuôi thường thấp hơn tự nhiên và chịu sự ảnh hưởng của quy luật ưu thế: trong môi trường nghèo dinh dưỡng thường có thành phần loài đa dạng nhưng số lượng cá thể không cao, hệ sinh thái ao nuôi tương đối cân bằng và ổn định. Tuy nhiên, nguồn dinh dưỡng dư thừa quá lớn lại là điều kiện cho các tảo gây độc và vi sinh vật gây bệnh phát triển mạnh mẽ. Hiện tượng nở hoahay phú nhưỡng hóa xuất hiện làm giảm oxy trong nước, gia tăng độc đố, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hô hấp, sức khỏe và khả năng đề kháng của tôm. Do đó việc kiểm soát mật độ tảo phù hợp, kích thích các loài tảo có lợi phát triển chiếm ưu thế, hạn chế tảo gây hại phát triển cần phải chú trọng, quản lý một cách chặt chẽ nhằm đảm bảo dưỡng khí trong nước, tạo điều kiện tốt nhất cho môi trường ao nuôi.

Các loài tảo phổ biến trong hồ nuôi tôm bao gồm: Tảo lục (Scenedesmus sp., Chlorella sp., Nannochloropsis sp.,…), tảo khuê (hay còn gọi là tảo silic) là những loại tảo có lợi do không chứa độc tố; Tảo lam (Nostoc sp., Anabaena sp., Oscillatoria sp.,…), tảo giáp và tảo mắt là nhóm tảo gây hại, khi chúng phát triển chiếm ưu thế sẽ gây hiện tượng nở hoa làm gia tăngđộ nhớt của nước, bọt nổi khó tan xuất hiện, sản sinh nhiều chất độc.

Một số loài tảo có lợi trong ao nuôi

N và P dư thừa lớn trong ao nuôi tôm tạo điều kiện cho tảo lam phát triển mạnh, gây thiếu oxy, chất nhờn do tảo lam tiết vào nước gây tắc nghẽn mang tôm. Trong điều kiện dư thừa nhiều chất hữu cơ trong nước, tảo mắt tăng sinh khối rất nhanh, ảnh hưởng đến hàm lượng oxy hòa tan trong ao và làm nhiễm bẩn thêm môi trường nước ao. Tảo giáp xuất hiện và phát triển nhiều là biểu hiện của nước trong ao nuôi bị ô nhiễm. Tôm không tiêu hóa được loài tảo này do chúng có vách tế bào cứng, một số trường hợp tôm bị tắc nghẽn đường ruột hoặc phân bị đứt đoạn do có quá nhiều tảo giáp trong ruột. Sự xuất hiện với mật độ cao của loài tảo này thường dẫn đến tôm nổi đầu về đêm và lúc sáng sớm do thiếu oxy trong nước, nước ao bị phát sáng, ảnh hưởng nhiều đến tập tính sống của tôm nuôi.

Một số loài tảo gây độc trong ao nuôi

Các loài tảo độc gây ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp đến thủy sản nuôi trồng do sự phát triển của chúngảnh hưởng đến chất lượng nước nuôi: làm giảm mạnh lượng oxy hòa tan cung cấp cho quá trình hô hấp,độc tố do chúng tiết ra gây hoại tử gan, đồng thời làm giảm khả năng miễn dịch khiến tôm mẫn cảm với các tác nhân gây bệnh. Nguyên nhân chính làm nhóm tảo này phát triển mạnh trong ao nuôi là do ô nhiễm hữu cơ:nguồn thức ăn dư thừa tích tụ, phân tôm tích lũy trong suốt vụ nuôi, nền đáy không được cải tạo kỹ lưỡng trước khi bắt đầu vụ nuôi mới, thời tiết thay đổi thất thường (nắng nóng hoặc mưa kéo dài).

Nhằm kiểm soát một cách tốt nhất sự phát triển của các nhóm tảo gây độc này, các biện pháp vật lý và sinh học được xem là phương pháp phòng chống cũng như xử lý ô nhiễm và hiện tượng phú nhưỡng hóa mang lại hiệu quả cao và an toàn. Người nuôi cần tuân thủ một số biện pháp trong quá trình nuôi để kiểm soát tảo độc phát triển quá mức như: cải tạo ao đúng quy trình kỹ thuật, bố trí quạt nước hợp lý; sau mỗi vụ nuôi phải phơi đáy, cải tạo ao cẩn thận, loại bỏ bùn cặn dư thừa trước khi bắt đầu vụ nuôi; quản lý thức ăn, quản lý môi trường ao nuôi không để dư thừa thức ăn và tránh các nguồn thức ăn như các loại phân gia súc, gia cầm và các nguồn nước thải khác gây ô nhiễm nước ao. Bên cạnh các biện pháp trên, biện phápbổ sung chế phẩm vi sinh có lợi (Bacillus subtilis, Bacillus licheniformis,…) là biện pháp hiệu quả giúp kiểm soát và duy trì ổn định mật độ vi sinh vậtcũng góp phần đáng kể giúp kiểm soát sự cân bằng thành phần và mật độ tảo trong nước nuôi tôm.

Ngoài ra, khi nhóm tảo độc đã phát triển ưu thế, việc vớt tách, loại bỏ tảo, thay nước một phần cần được tiến hành ngay đồng thời bổ sung các chế phẩm sinh họcmột cách thích hợp giúp xử lý ao nuôi mang lại hiệu quả cao. Các chế phẩm men vi sinh cắt tảo chứa các thành phần chính: lợi khuẩn (Bacillus subtilis, Bacilus licheniformis,…), nấm men (Saccharomyces cerevisiae) và các enzyme có khả năng thủy phân mạnh (Amylase, Cellulase, protease, Xylanase,…) giúp phân giải các chất hữu cơ tồn dư từ nguồn thức ăn dư thừa, phân tôm, nguồn hữu cơ gây ô nhiễm, xác tảo (tinh bột, cellulose, protein,…) làm giảm mạnh hiện tượng phú nhưỡng hóa do sự phát triển của các nhóm tảo. Đồng thời, sự gia tăng về thành phần, mật độ của nhóm vi sinh vật có lợi cũng làm giảm rõ rệt mật độ các tảo gây độc và vi sinh vật gây bệnh thông qua cạnh tranh nguồn dinh dưỡng.

Biện pháp kiểm soát tảo độc trong hồ nuôi tôm bằng các chế phẩm men vi sinh cắt tảo BioOne DeGreen giúp kiểm soát mật độ tảo mang lại một lợi ích đa chiều với chi phí thấp: giảm thiểu mật độ và thành phần các nhóm tảo gây độc đồng thời quản lý chất lượng nước ao nuôi, hạn chế phát sinh khí NH3 và NO2 gây độc, bổ sung hệ vi sinh vật có lợi, ức chế vi khuẩn có hại, ổn định môi trường nước, giúp cân bằng pH,…

Để đạt được hiệu quả tốt nhất trong công tác kiểm soát mật độ và thành phần tảo trong ao hồ nuôi tôm, việc kiểm tra thường xuyên và kết hợp các phương pháp cải tạo, kiểm soát chất lượng nước, khẩu phần ăn, hàm lượng oxy, mật độ vi sinh vật có lợi,… cùng với bổ sung liên tục, thường xuyên các chủng vi sinh vật có ích, đặc biệt là Bacillus subtilis, Bacillus licheniformis,…có khả năng tổng hợp các enzyme có hoạt tính phân giải mạnh: Amylase, Cellulase, Protease,… nhằm xử lý đáy ao nuôi cũng như nước nuôi tôm ngay từ đầu vụ nuôi đến khi thu hoạch là phương pháp kiểm soát chặt chẽ và triệt để chất lượng nguồn nước, giúp gia tăng sức đề kháng, giảm tỷ lệ nhiễm bệnh nâng cao chất lượng, sản lượng thu hoạch, mang lại lợi ích kinh tế lớn cho người nuôi trồng.

CAT-TAO-TRONG-AO-NUOI

Probiotic là gì? Probiotic có lợi gì với sức khỏe động vật và con người?

  1. Probiotic là gì?

Hệ tiêu hóa của người và động vật là ngôi nhà của rất nhiều vi sinh vật, nhất là vi khuẩn và nấm men. Trong đường ruột của chúng ta có tới một vạn tỷ (1014) vi sinh vật, gấp 10 lần số tế bào của cơ thể người. Các vi sinh vật này không nhìn được bằng mắt thường nhưng thực tế chúng sống xung quanh và bên trong cơ thể chúng ta. Chúng có trong nước uống, thức ăn và không khí hít thở hàng ngày. Tuy nhiên, chúng ta không phải lo lắng vì có tới 95% số vi sinh vật này là có lợi cho sức khỏe con người.

Các vi sinh vật sống trong hệ tiêu hóa động vật hình thành nên hệ vi sinh đường ruột, bao gồm nhiều nhóm khác nhau của vi khuẩn, nấm men và nấm mốc. Trong số này, các vi khuẩn có lợi cho sức khỏe động vật được gọi là probiotic, còn các vi khuẩn gây bệnh hoặc gây ra các triệu chứng có thể dẫn tới bệnh được gọi là vi khuẩn có hại. Như vậy, sự cân bằng giữa vi khuẩn có lợi và có hại là rất cần thiết cho sức khỏe của người và động vật. Các vi sinh vật sống trong hệ đường ruột phải cạnh tranh với nhau về không gian và nguồn sống để tồn tại, sinh trưởng và sinh sản. Hệ đường ruột là môi trường lý tưởng về nhiệt độ, độ ẩm và nguồn thức ăn cho các vi sinh vật này. Ai sẽ chiến thắng trong cuộc chiến sinh tồn này: probiotic – kẻ tốt – có tác động hữu ích lên sức khỏe động vật hay là vi khuẩn gây bệnh – kẻ xấu – gây ra những tác động có hại?

Vậy probiotic là gì? Thuật ngữ probiotic bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ bao gồm hai từ probiotica có nghĩa là “cho sự sống”. Trong tiếng Việt, probiotic còn được gọi dưới các tên khác nhau như “trợ sinh”, “chế phẩm vi sinh”, “vi sinh vật có lợi” hoặc “vi sinh vật hiệu quả”. Ý tưởng sử dụng vi khuẩn có lợi đã được Metnhicoff đưa ra từ năm 1907. Tuy nhiên, định nghĩa về probiotic thì mãi sau này mới được hình thành và thay đổi theo lịch sử phát triển.

Các định nghĩa về probiotic của các tác giả tuy có khác nhau nhưng cùng thống nhất về vai trò có lợi của vi khuẩn probiotic đối với sức khỏe vật chủ thông qua khả năng tái lập cân bằng hệ vi sinh đường ruột giữa các vi sinh vật có lợi và vi sinh vật có hại. Nhưng do còn nhiều quan niệm khác biệt cho nên Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO) đã lập một hội đồng chuyên gia để định nghĩa về probiotic vào năm 2001. Theo đó, “probiotic là các vi sinh vật sống khi được bổ sung một lượng vừa đủ sẽ có tác động hữu ích lên sức khỏe vật chủ”. Định nghĩa này được chấp nhận rộng rãi cho đến ngày nay.

Các probiotic có những tác động hữu ích gì đối với cơ thể động vật? Trước tiên, chúng ta hãy xem xét hệ vi sinh vật đường ruột như một thể thống nhất. Các vi sinh vật probiotic có thể giúp cơ thể vật chủ tăng cường tiêu hóa và hấp thu dinh dưỡng, tăng khả năng đáp ứng miễn dịch, …Các probiotic có thể sản sinh vitamin nhất là vitamin B – đóng vai trò quan trọng trong trao đổi chất. Chúng còn có thể ức chế sinh trưởng của các vi khuẩn có hại, thông qua khả năng tiết các chất kháng khuẩn khác nhau, giúp ngăn ngừa bệnh tật. Một ví dụ điển hình là các vi khuẩn lactic có khả năng sản sinh acid lactic làm giảm pH của đường ruột, do vậy ức chế sinh trưởng của các vi sinh vật có hại. Những tác dụng có lợi khác của vi khuẩn probiotic bao gồm hoạt động cạnh tranh dinh dưỡng và không gian sống với vi khuẩn gây bệnh. Suy cho cùng, probiotic giúp duy trì một hệ vi sinh đường ruột khỏe mạnh của cơ thể vật chủ.

  1. Probiotic có lợi gì với sức khỏe động vật và con người?

Hoạt tính có lợi của vi sinh vật probiotic thể hiện thông qua 5 cơ chế hoạt động chính của chúng, bao gồm: cơ chế loại trừ cạnh tranh, cơ chế sản sinh các chất kháng vi sinh vật (acid hữu cơ, H2O2, CO2, bacteriocin, reuterin, các chất kháng vi sinh vật khác), cơ chế điều hòa miễn dịch, cơ chế sản sinh enzyme và các sản phẩm trao đổi chất khác, và cơ chế dập tắt cảm biến mật độ tới hạn (quorum quenching).

Việc tăng cường khả năng chống xâm nhập và tác dụng ức chế trực tiếp đối với các vi khuẩn gây bệnh là hai nhân tố quan trọng giúp cho probiotic làm giảm sự ảnh hưởng cũng như thời gian nhiễm bệnh của các vi khuẩn gây bệnh. Các chủng probiotic thể hiện khả năng ức chế vi khuẩn gây bệnh trong cả các thử nghiệm in vitro và in vivo thông qua một số cơ chế khác nhau. Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về probiotic được công bố trong hơn một thập kỷ qua nhưng do những giới hạn về phương pháp và giới hạn về đạo đức của việc nghiên cứu trên động vật việc tìm hiểu cơ chế tác động của probiotic gặp nhiều khó khăn, hoặc chỉ có thể tìm hiểu và giải thích được từng phần.

2.1. Loại trừ cạnh tranh

Trong sinh thái học, nguyên lý loại trừ cạnh tranh (competitive exclusion), hay còn gọi là định luật Gause, cho rằng hai loài cạnh tranh vì cùng một nguồn sống thì không thể cùng tồn tại nếu các yếu tố sinh thái khác là không đổi. Khi một trong hai loài có những lợi thế nhỏ thì sau đó có thể chiếm ưu thế trong dài hạn. Một trong hai đối thủ cạnh tranh sẽ luôn phải vượt qua đối thủ còn lại, dẫn đến sự loại trừ của một trong hai đối thủ cạnh tranh này hoặc dẫn tới một sự thay đổi tiến hóa hoặc tập tính để chuyển hướng sang một ổ sinh thái khác nhằm giảm áp lực cạnh tranh.

Đối với vi sinh vật probiotic trong hệ vi sinh vật đường ruột, nguyên lý này được thể hiện rõ nhất ở khả năng cạnh tranh vị trí bám dính hoặc chất dinh dưỡng và khả năng loại trừ các vi sinh vật gây bệnh.

Vì vậy, trước hết vi sinh vật (có lợi hay có hại) muốn phát triển được trong đường ruột vật chủ thì phải có khả năng bám dính vào thành ruột (chất nhầy hoặc niêm mạc ruột) nhờ khả năng liên kết với các thụ thể trên thành ruột. Quá trình bám dính vào thành ruột giúp vi sinh vật không bị rửa trôi ra khỏi đường ruột bởi tác động của nhu động ruột, nhờ đó chúng có khả năng tồn tại và phát triển trong đường ruột, và cuối cùng mới có thể gây ra những tác động đối với cơ thể vật chủ. Khả năng bám dính của mỗi loài vi sinh vật là nhờ các yếu tố bám dính (có bản chất là protein hoặc polysaccharide) nằm trên màng tế bào, trong đó các thành phần: protein thành tế bào, polysaccharide, acid lipoteichoic đóng vai trò quyết định.

Các yếu tố bám dính có bản chất protein được chia thành hai nhóm: nhóm có nhung mao (fimbria) và nhóm không có nhung mao. Các nhung mao là các sợi lông mảnh và ngắn trên bề mặt vi khuẩn. Các nhung mao được cấu tạo bởi nhiều protein xếp chặt với nhau tạo nên hình dạng giống như trụ xoắn ốc. Đỉnh của các nhung mao có chức năng gắn với tế bào vật chủ. Các vi khuẩn Gram âm thường bám dính nhờ các nhung mao này (như E. coli gây viêm dạ dày ruột và nhiễm khuẩn tiết niệu). Các yếu tố bám dính không có nhung mao dùng để chỉ các protein có chức năng bám dính nhưng không tạo thành cấu trúc chuyên biệt như nhung mao. Các yếu tố bám dính không có nhung mao thường điều khiển quá trình tiếp xúc mật thiết với tế bào vật chủ, tuy nhiên quá trình này chỉ xảy ra ở một nhóm nhỏ các loại tế bào nhất định nếu so với khả năng gắn được với rất nhiều loại tế bào khác nhau của nhung mao. Ví dụ, các vi khuẩn Gram âm (Yersinia pseudotuberculosis, E coli gây bệnh đường ruột, Neisseria), các vi khuẩn Gram dương (Staphylococcus, Streptococcus) và vi khuẩn Mycobacterium là những tác nhân gây bệnh có yếu tố bám dính không có nhung mao.

Các yếu tố bám dính bản chất polysaccharide thường là thành phần cấu tạo của màng tế bào, thành tế bào và vỏ vi khuẩn. Acid teichoic trong thành tế bào của vi khuẩn có tác dụng như là một yếu tố bám dính của StaphylococcusStreptococcus. Các polysaccharide (glucan và mannan) trong lớp vỏ của Mycobacterium cũng được các thụ thể (thụ thể bổ thể 3 và thụ thể mannose) của vật chủ nhận diện, nhờ đó làm tăng tính bám dính của các tác nhân này. Các tương tác giữa thụ thể và phối tử nhằm tăng cường khả năng bám dính có thể chia thành hai nhóm chính: tương tác protein – protein và protein – carbohydrate. Ngoài ra, các vi sinh vật thường sử dụng rất nhiều thụ thể khác nhau của tế bào vật chủ.

Khả năng bám dính của các tế bào probiotic trong chất nhầy ruột và các tế bào biểu mô từ lâu đã được xem là một trong những tiêu chí quan trọng nhất trong việc lựa chọn vi khuẩn probiotic. Khả năng bám dính của các chủng probiotic phụ thuộc vào nhiều yếu tố như bản thân vi khuẩn probiotic, pH của đường ruột, các enzyme tiêu hóa trong đường ruột, sự có mặt của muối mật… Ngoài ra độ tuổi của vật chủ và trạng thái sinh lý cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng bám dính. Những cơ thể vật chủ non và thể trạng khỏe mạnh thì khả năng bám dính của vi khuẩn probiotic cũng tốt hơn.

Nhờ khả năng bám dính trên thành ruột nên probiotic có thể cạnh tranh vị trí bám dính của vi khuẩn gây bệnh trên thành ruột. Vi khuẩn probiotic liên kết với các thụ thể trên thành ruột làm giảm số lượng thụ thể tự do trên thành ruột, đồng thời chúng còn tạo nên hàng rào ngăn cản sự xâm nhập của các vi khuẩn gây bệnh, từ đó ngăn cản sự khu trú và phát triển của các vi khuẩn gây bệnh.

Người ta đã chứng minh khả năng bám dính và phát triển trên bề mặt ruột của Lactobacillus rhamnosus GG và Lactobacillus plantarum 299V để ngăn cản sự phát triển và lây lan của vi khuẩn E. coli O157:H7 gây bệnh tiêu chảy ở người và động vật nuôi. Một số vi khuẩn thuộc chi Lactobacillus cũng được biết có thể khóa các thụ thể bề mặt trong đường ruột nhằm hạn chế sự bám dính của các vi sinh vật gây bệnh khác.

Hơn nữa, probiotic còn có khả năng cạnh tranh chất dinh dưỡng, chẳng hạn như sự hấp thụ các monosaccarit của các vi sinh vật probiotic có thể làm giảm sự phát triển của Clostridium difficile gây ra bệnh tiêu chảy trên vật nuôi bởi vì sự phát triển của Clostridium difficile phụ thuộc vào các monosaccarit này.

Ngoài ra, probiotic còn có khả năng kết hợp với vi khuẩn gây bệnh theo kiểu đồng keo tụ, chúng kết dính với nhau tạo thành chùm và từ đó có khả năng loại bỏ các vi khuẩn gây bệnh nếu nồng độ các vi khuẩn probiotic đủ lớn. Các nghiên cứu cho thấy, một số chủng probiotic thương mại có thể đồng keo tụ với một số loài gây bệnh như Bacteroides vulgatus, Clostridium histolyticum và Staphylococcus aureus. Đây là cơ sở quan trọng giúp chúng ta có thể tuyển chọn sơ bộ một chủng probiotic phù hợp.

Khả năng bám dính được coi như là một trong đặc tính quan trọng của vi khuẩn probiotic. Một số phương pháp khác nhau đã được sử dụng để đánh giá khả năng bám dính của probiotic, phổ biến nhất là đánh giá khả năng kết dính với tế bào niêm mạc ruột và chất nhầy ruột. Thông thường trong các nghiên cứu in vitro, để đánh giá xem một chủng probiotic có khả năng bám dính vào thành ruột vật chủ hay không, người ta thường thử nghiệm khả năng sinh trưởng của chúng trên dịch nhày niêm mạc ruột.

2.2 Sản sinh các chất kháng vi sinh vật

Khả năng ức chế, tiêu diệt các vi sinh vật gây bệnh của probiotic (đặc biệt là các loài vi khuẩn lactic) đã được biết đến từ rất lâu. Hầu hết các thực phẩm lên men (sữa chua, rau quả muối chua, nem chua…) chứa rất nhiều vi khuẩn probiotic, được công nhận là an toàn do được lên men bởi vi khuẩn lactic. Cơ sở khoa học của quá trình bảo quản này là các quá trình lên men lactic, lên men ethanol… Các quá trình này tạo ra một môi trường pH thấp và hàng loạt các chất kháng khuẩn khác nhau.

Ngày nay, cơ chế sản sinh các chất kháng vi sinh vật của vi khuẩn probiotic đã được làm sáng tỏ. Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng probiotic có khả năng sản sinh hàng loạt các chất ức chế như acid hữu cơ, H2O2, CO2, bacteriocin, các hợp chất kháng khuẩn phân tử lượng thấp, và một số hợp chất khác. Các chất này được sinh ra bên trong đường ruột và bên ngoài môi trường nuôi sẽ có tác dụng ức chế sự phát triển của các vi khuẩn gây bệnh khác.

– Acid hữu cơ

Acid hữu cơ được tạo nên bởi hầu hết các vi khuẩn probiotic thông qua quá trình lên men đường hexose. Các acid hữu cơ được hình thành phụ thuộc vào các chủng giống vi khuẩn và điều kiện nuôi cấy. Các chủng vi khuẩn lactic lên men đồng hình có khả năng sử dụng đường theo con đường đường phân để tạo ra hai phân tử acid lactic từ một phân tử glucose. Các chủng vi khuẩn lactic lên men dị hình có khả năng tạo ra acid lactic, ethanol, acid acetic, acid propionic, CO2. Các acid hữu cơ như acid acetic, acid propionic có các giá trị Pka thấp hơn, có khả năng ức chế mạnh hơn acid latic và có khả năng ức chế nhiều loại vi khuẩn, nấm men, nấm mốc. Các acid hữu cơ là loại acid yếu, ít phân ly nên dễ dàng thấm qua màng tế bào của vi khuẩn, gây bệnh qua lớp phospholipid, dẫn đến làm thay đổi pH của nguyên sinh chất và gradien H+ là nguyên nhân gây ức chế vi khuẩn, cuối cùng có khả năng tiêu diệt vi khuẩn.

Các acid hữu cơ được biết có khả năng ức chế rất nhiều loài vi khuẩn gây bệnh như: S. aureus, E. coli, Salmonella…

– H2O2

Khi có mặt của enzyme FAD oxydase và O2, vi khuẩn có khả năng sản sinh ra H2O2. Các chủng vi khuẩn lactic tạo H2O2 trong điều kiện kỵ khí trên môi trường chứa glucose. Khả năng kháng khuẩn của H2O2 nhờ vào khả năng oxy hóa mạnh thành tế bào vi khuẩn. Trong điều kiện tự nhiên, khả năng này được tăng cường nhờ sự có mặt của hệ enzyme lactoperoxidase sẽ tạo nên hypothiocyanate (OSCN) hoặc oxyacid cao hơn (O2SCN và O3SCN). Tác động của những oxyacid này sẽ phá hủy các enzyme trao đổi chất của vi khuẩn, chẳng hạn như glyceraldehyte-3-phosphate dehydrogenase hoặc phá hủy thành tế bào vi khuẩn.

– CO2

CO2 là sản phẩm chính của quá trình lên men lactic dị hình. Một số vi khuẩn lactic có thể tạo CO2 từ malate và citrate, quá trình trao đổi chất arginine qua con đường khử amin của arginine và quá trình khử carboxyl của một số acid amin như histidine, tyrosine. CO2 có thể tạo ra môi trường yếm khí, nhờ đó có khả năng gây ức chế đối với các vi khuẩn hiếu khí. Khả năng ức chế vi khuẩn của CO2 có được nhờ vào khả năng ức chế các enzyme decarboxylase và khả năng tích lũy CO2 trong lớp phospholipid và làm rối loạn tính thấm của màng tế bào. CO2 có khả năng ức chế nhiều vi khuẩn đặc biệt là các vi khuẩn Gram âm. Tác dụng ức chế vi khuẩn của CO2 đã được ứng dụng trong thương mại cho nhiều sản phẩm đông lạnh bằng việc bao gói sản phẩm trong môi trường chứa CO2.

– Bacteriocin

Bacteriocin là những hợp chất kháng khuẩn có bản chất là các protein được tổng hợp ở chủng vi khuẩn này có khả năng tiêu diệt hoặc ức chế sinh trưởng đối với một số hoặc nhiều loại vi khuẩn khác. Chúng thuộc vào nhóm protein đồng thể, có phổ tác dụng, cơ chế, khối lượng phân tử, nguồn gốc di truyền, và tính chất sinh hóa khác nhau. Trong nhiều tài liệu thì bacteriocin thường bị nhầm lẫn với kháng sinh, nhưng chúng khác kháng sinh ở một số điểm: được tổng hợp ở ribosom; tế bào chủ miễn dịch với chúng do có khả năng tạo các protein miễn dịch; cơ chế tác dụng của bacteriocin và kháng sinh khác nhau và phổ diệt khuẩn của bacteriocin thường hẹp hơn. Thông thường bacteriocin được sản xuất bởi các vi khuẩn Gram âm có phổ tác dụng rộng hơn so với bacteriocin được tạo ra từ vi khuẩn Gram dương. Bacteriocin tạo ra từ vi khuẩn Gram dương, chủ yếu là vi khuẩn lactic có khả năng ức chế các chủng tương tự hoặc có quan hệ tiến hóa gần gũi. Bacteriocin sản xuất bởi vi khuẩn lactic được chia thành 4 lớp chính: (I) Lantibiotic, (II) Bacteriocin bền nhiệt mạch ngắn (< 10 kDa), (III) Bacteriocin không bền nhiệt mạch dài (> 30 kDa) và (IV) Bacteriocin phức tạp có chứa lipid và carbohydrate. Nhưng những thông tin liên quan đến việc phân loại này chủ yếu được sử dụng cho việc tinh sạch bacteriocin.

Bacteriocin từ vi khuẩn lactic được sử dụng như những chất bảo quản tự nhiên trong thực phẩm và như một hoạt chất tiết của vi khuẩn probiotic. Với những mục đích này thì người ta thường tuyển chọn và sử dụng các bacteriocin có phổ kháng khuẩn tương đối rộng, ức chế nhiều nhóm vi khuẩn gây bệnh. Tuy nhiên nhiều bacteriocin từ vi khuẩn lactic có phổ kháng khuẩn hẹp và hầu hết không có tác dụng đối với vi khuẩn Gram âm. Do vậy việc kết hợp bacteriocin với các cơ chế bảo quản khác sẽ làm tăng khả năng ức chế các vi khuẩn Gram âm. Đối với ứng dụng như một hoạt chất tiết của vi khuẩn probiotic, bacteriocin phải giữ được hoạt tính trong đường ruột, đây là một điểm hạn chế đối với các bacteriocin có bản chất protein tự nhiên. Ví dụ nhiều nghiên cứu cho thấy nisin, một loại bacteriocin lớp (I) đã được thương mại hóa, được tạo ra bởi vi khuẩn Lactococcus lactis bị suy thoái hoặc bị mất hoạt tính trong môi trường đường ruột dưới tác dụng của pH thấp và các enzyme tiêu hóa.

– Các hợp chất kháng khuẩn phân tử lượng thấp

Reuterin là chất kháng khuẩn phân tử lượng thấp được tạo thành bởi vi khuẩn probiotic đã được nghiên cứu chuyên sâu nhất. Reuterin được tạo thành bởi một số chủng Lactobacillus, là một chất ức khuẩn mạnh trong đường ruột người và động vật. Reuterin được hình thành trong pha cân bằng của quá trình sinh trưởng kỵ khí trên môi trường hỗn hợp glucose và glycerol hoặc glyceraldehyde. Trong suốt pha sinh trưởng logarit, reuterin không được tạo ra do giảm khả năng trao đổi glucose. Chỉ đến khi tế bào đạt đến pha cân bằng thì reuterin mới được tổng hợp. Hơn thế nữa reuterin được tổng hợp khi tiếp xúc với tế bào mục tiêu. Reuterin có phổ kháng khuẩn rộng đối với cả vi khuẩn Gram dương và vi khuẩn Gram – như nấm men, nấm mốc và động vật nguyên sinh. Phổ kháng khuẩn rộng được giải thích nhờ khả năng ức chế enzyme ribonucleotide reductase, do đó can thiệp vào quá trình tổng hợp DNA.

– Các chất kháng vi sinh vật khác

Vi khuẩn probiotic cũng có khả năng sản sinh các chất kháng khuẩn khác như diacetyl, acetaldehyde và ethanol. Diacetyl là sản phẩm của quá trình trao đổi citrate và kết quả tạo nên mùi hương cho bơ. Vi khuẩn Gram âm nhạy cảm với diacetyl hơn vi khuẩn Gram dương, có thể là do diacetyl can thiệp vào quá trình sử dụng arginine. Do nồng độ của các chất này tạo ra thấp nên tác động kháng khuẩn cũng không nhiều. Acetaldehyde hình thành trong quá trình lên men dị hình carbohydrate của vi khuẩn lactic. Acetaldehyde đem lại mùi hương đặc trưng cho sữa chua.

Một số vi khuẩn probiotic có khả năng kháng virus, mặc dù cơ chế kháng của chúng hiện chưa được làm rõ. Các thí nghiệm in vivo đã chỉ ra rằng một số các hợp chất hóa học và sinh học như dịch chiết tảo biển và vi khuẩn có thể làm bất hoạt virus. Một số chủng Pseudomonas, Vibrio, Aeromonas được phân lập từ các trại nuôi cá hồi cho thấy hoạt tính kháng trên 50% virus IHNV (infectious hematopoetic necrosis virus). Hai chủng Vibrio khác (NICA 1030 và NICA 1031) được phân lập từ ao nuôi tôm sú đã thể hiện hoạt tính kháng virus IHNV và OMV (oncorhynchus masou virus) với tỷ lệ chết lần lượt là 62 và 99%. Trong một thí nghiệm khác, vi khuẩn biển Moraxella có khả năng kháng đặc hiệu cao với nhóm poliovirus.

2.3 Điều hòa miễn dịch

Hệ miễn dịch trong ruột rất quan trọng cho cơ thể. Có đến 70 – 80% các tế bào miễn dịch của toàn cơ thể phát triển và hoạt động trong ruột, gồm các lympho bào B và T, đại thực bào, bạch cầu đa nhân, các tương bào tiết IgA. Cho nên, việc nuôi dưỡng và kích thích các tế bào miễn dịch tại màng ruột hoạt động bình thường góp phần quan trọng trong điều hòa miễn dịch của cơ thể.

Vi khuẩn đường ruột có ảnh hưởng rất lớn đến chức năng bảo vệ niêm mạc ruột và đường ruột trưởng thành, và cần thiết cho phát triển đầy đủ mô bạch huyết của cơ thể,… Kết quả nghiên cứu trên chuột đã cho thấy vi khuẩn đầu tiên định cư trong ruột của chuột sơ sinh (vi khuẩn tiên phong) có thể điều chỉnh biểu hiện gen trong tế bào biểu mô đường ruột của vật chủ. Điều này dẫn đến hệ vi môi trường đường ruột bị thay đổi và ảnh hưởng đến quá trình định cư tự nhiên sau này. Quá trình định cư ban đầu của vi sinh vật đường ruột ở chuột sơ sinh cũng rất quan trọng trong việc kích thích sự phát triển bình thường của hệ miễn dịch. Sự vắng mặt hoặc sự có mặt không đầy đủ của các tác nhân vi sinh vật ban đầu đã được chứng minh là gây ra các khuyết tật trong hàng rào chức năng đường ruột, làm giảm phản ứng viêm, bị lỗi phản ứng IgA. Độ sai lệch miễn dịch này có thể được sửa chữa bằng cách phục hồi hệ vi sinh vật đường ruột, nhưng chỉ khi điều này xảy ra trong thời kỳ sơ sinh.

Những kết quả trên cho thấy sự phơi nhiễm sớm của vi khuẩn và một hệ vi sinh đường ruột khỏe mạnh quyết định đến việc cung cấp các kích thích và phát triển hệ miễn dịch tự nhiên trên vật chủ.

Vi khuẩn probiotic tăng cường đáp ứng miễn dịch tự nhiên bằng cách kích thích miễn dịch niêm mạc. Ví dụ, vi khuẩn Lactobacillus có khả năng hoạt hóa đại thực bào, kích thích hình thành bạch cầu, tăng tổng hợp IgA, và tăng khả năng tổng hợp interferon gamma. Vi khuẩn probiotic đáp ứng miễn dịch chống dị ứng kích thích tổng hợp IgA đặc hiệu ở niêm mạc ruột thông qua việc phục hồi hệ vi sinh vật bình thường, gây tác động biến đổi các yếu tố tăng trưởng beta và sự sản sinh IL-10 cũng như các cytokine kích thích sản xuất kháng thể IgE. IL-10 là chất do tế bào TH2 sinh ra do tác động lên đại thực bào gây ức chế sự sinh sản cytokine và do đó gián tiếp làm giảm sự sinh sản tế bào cytokine của tế bào TH1.

Trong điều hòa miễn dịch, vi khuẩn probiotic biến đổi gen làm tăng cường hiệu quả kích thích miễn dịch. Năm 2005, Grangette và cộng sự phát triển một chủng L. platarum NCIMB8826 đột biến Dlt, tức là có tỷ lệ D-alanine thấp hơn trong acid teichoic ở thành tế bào vi khuẩn. Chủng đột biến Dlt này giúp cải thiện sức khỏe ở chuột bị bệnh viêm đại tràng khi làm tăng đáng kể sự tiết IL-10.

Mối tương tác giữa vi khuẩn hội sinh và vi khuẩn gây bệnh với hệ thống miễn dịch đường ruột là trung tâm của việc duy trì nội cân bằng miễn dịch. Các tế bào biểu mô ruột và tế bào tua (tế bào đuôi gai) là những tế bào đầu tiên của hệ thống miễn dịch niêm mạc mà vi khuẩn hội sinh và vi khuẩn gây bệnh bắt gặp. Các vi sinh vật này được nhận biết bởi các thụ thể nhận biết hình mẫu (PRR, pattern regconition receptor) của mô lympho ruột. Các thụ thể này có khả năng nhận biết các hình mẫu phân tử bảo tồn của các vi khuẩn gây bệnh. Điều thú vị là các hình mẫu phân tử bảo tồn này không chỉ có mặt ở vi khuẩn gây bệnh mà còn có mặt ở tất cả các lớp vi khuẩn, bao gồm các vi khuẩn hội sinh và ở các virus nữa.

2.4 Sản sinh enzyme và các sản phẩm trao đổi chất khác

Các vi sinh vật probiotic có thể giúp con người và động vật chủ tiêu hóa tốt hơn và tăng cường hấp thu các chất dinh dưỡng, làm giảm hệ số chuyển hóa thức ăn (FCR) bằng cách tiết ra một số enzyme tiêu hóa và các sản phẩm trao đổi chất khác. Chúng có thể tiết amylase, lipase và protease và tăng cường hoạt động của enzyme tiêu hóa của người và động vật. Chẳng hạn, một thử nghiệm trên cá chép bột cho thấy khi cho cá uống 200 – 300 mg chế phẩm probiotic Bacillus licheniformis trong mỗi kilogam thức ăn có thể làm tăng hoạt động của enzyme tiêu hóa, tăng khả năng tăng trưởng của cá. Ngoài ra, các vi sinh vật probiotic còn có thể sản sinh các vitamin, nhất là các loại vitamin B. Nhiều ví dụ cụ thể sẽ được trình bày trong các chương 7 và 8.

2.5 Dập tắt cảm biến mật độ tới hạn (quorum quenching)

Cảm biến mật độ tới hạn (quorum sensing) là một trong những cơ chế giao tiếp chính giữa các tế bào vi khuẩn trong một quần thể. Hình thức đơn giản nhất là việc giải phóng ra các hợp chất hóa học đặc trưng mà dựa vào nó tế bào vi khuẩn có thể dò tìm và nhận biết được đồng loại. Nói cách khác, cảm biến mật độ tới hạn là cơ chế vi khuẩn điều khiển gen liên quan đến mật độ quần thể bằng cách tạo ra (producing), phóng thích (releasing) và dò tìm (detecting) các phân tử tín hiệu; là tiến trình các tế bào vi khuẩn thông tin liên lạc với nhau bằng các phân tử tín hiệu. Có một số hợp chất đã được nghiên cứu, chúng được gọi là chất tự cảm ứng (autoinducer) do bản thân các vi khuẩn tổng hợp nên. Có 5 loại hợp chất chính trong hệ thống cảm biến mật độ tới hạn của vi khuẩn bao gồm oligopeptid, N-Acyl homoserine lactone (N-AHL), quinolone, g-butyrolactone và furanone. Hầu hết các tín hiệu cảm biến mật độ tới hạn là các sản phẩm trao đổi chất thứ cấp, đa dạng và rất nhiều chất chưa được nghiên cứu.

Ở các vi khuẩn Gram dương, các phân tử cảm biến mật độ tới hạn thường là các oligopeptid. Chúng được tìm thấy trong tế bào như các tiền peptid. Chúng bất hoạt cho đến khi được tách ra từ quá trình tiết ở màng tế bào và một số trường hợp các peptid đã bị biến đổi. Các phân tử tín hiệu được giải phóng ra khỏi tế bào và khuếch tán vào môi trường, được tiếp nhận bởi các tế bào bên cạnh bằng hai hệ thống. Các peptid tín hiệu kết hợp với histidine kinase trên màng tế bào và tác động đến hoạt động của nó, kết quả là tạo ra quá trình phosphoril hóa. Quá trình phosphoril hóa kích thích quá trình sao chép gen đích.

Con đường thứ hai của cơ chế này là sử dụng phân tử N-AHL, được tìm thấy chỉ có ở vi khuẩn Gram âm. Mô hình đầu tiên được nghiên cứu là vi khuẩn Vibrio fischeri, là loài vi khuẩn có khả phát sáng khi ở mật độ cao. Trong vi khuẩn này, gen luxl mã hóa một enzyme xúc tác quá trình tổng hợp N-3-(oxohexanoyl) homoserine lactone autoinducer (3-OC6-AHL). Ở nồng độ cao, N-AHL kết hợp với protein điều hòa phiên mã LuxR (do gen luxR mã hóa), chất có khả năng liên kết với promoter lux, kết quả là tạo ra sự phát sáng. Hiện nay N-AHL đã được tìm thấy ở trên 50 loài vi khuẩn Gram âm khác nhau, chẳng hạn, ở vi khuẩn V. harveyi. Những nghiên cứu mới đây cũng cho thấy một kiểu tín hiệu tương tự N-AHL là Aryl-homoserin lactone được tìm thấy ở vi khuẩn quang tự dưỡng Rhodopseudomonas palustris.

Hệ thống LuxS/autoinducer-2 (AI-2) với trung gian là các gốc furanone. Furanone có nhiều loại từ những loại không bền như 4,5 dihydroxy- 2,3 pentanedione được tạo ra bởi LuxS. LuxS/AI-2 được tìm thấy ở cả vi khuẩn Gram dương vả Gram âm. Đây là một phân tử tín hiệu phổ biến ở nhiều loại vi khuẩn. Những nghiên cứu cũng cho thấy các chất nhận của AI-2 đối với V.harveyi Salmonella enterica là typhimurium kết hợp với các đồng phân lập thể dạng S và R của 2-methyl-2,3,3,4 tetrahydroxytetrahydrofuran. Vì quá trình tổng hợp AI-2 liên quan đến con đường trao đổi chất trung tâm nên vai trò của hệ thống tín hiệu LuxS/Ai-2 vẫn còn đang tranh cãi. Thay vào đó AI-2 có thể là chất được hấp thụ và thể hiện được mật độ tế bào ngay lập tức trong môi trường. Trong các loài Streptomyces thì chất tự cảm ứng là g-butyrolactone điều khiển nhiều quá trình khác nhau, bao gồm quá trình sản sinh kháng sinh và hình thành sợi nấm.

Nhờ cảm biến mật độ tới hạn, vi khuẩn có thể kích hoạt các gen mã hóa các quá trình khác nhau như tạo màng sinh học, tạo bào tử, phát sáng, sản xuất kháng sinh, tiết ra các độc tố,… Trong tự nhiên, để cạnh tranh, đặc tính cảm biến mật độ tới hạn của một loài vi khuẩn này có thể bị các loài vi khuẩn khác triệt tiêu hoặc khống chế. Vì vậy, việc sử dụng các chủng vi khuẩn probiotic có khả năng dập tắt cảm biến mật độ tới hạn (quorum quenching – QQ) của các vi khuẩn loài gây bệnh, sẽ có ý nghĩa rất lớn.

Các chủng vi khuẩn có khả năng làm suy giảm hoặc làm bất hoạt N-AHL của tác nhân gây bệnh, hoặc có khả năng tích lũy poly-β-hydroxybutyrate (PHB), làm ức chế sự phát triển của tác nhân gây bệnh có thể trở thành vi khuẩn probiotic. Ví dụ, một nghiên cứu mới đây đã phân lập được từ ruột cá một loài vi khuẩn mới Flaviramulus ichthyoenteri thuộc họ Flavobacteriaceae với khả năng  dập tắt cảm biến mật độ tới hạn mạnh. Những phân tích hệ gen cũng cho thấy vi khuẩn này có khả năng sản sinh enzyme QQ, sử dụng nhiều chất dinh dưỡng trong hệ đường ruột cũng như sản sinh các loại enzyme tiêu hóa và vitamin; vì vậy có triển vọng rất tốt làm probiotic dùng trong nuôi trồng thủy sản.

(Nguồn: Công nghệ probiotic (2015). NGUYỄN VĂN DUY (Chủ biên), LÊ ĐÌNH ĐỨC, NGUYỄN THỊ KIM CÚC, PHẠM THU THỦY, LÊ PHƯƠNG CHUNG. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội)